Lịch sử Trôi_dạt_lục_địa

Abraham Ortelius (Ortelius 1596),[3] Theodor Christoph Lilienthal (1756),[4] Alexander von Humboldt (1801 và 1845),[4] Antonio Snider-Pellegrini (Snider-Pellegrini 1858), và các tác giả khác trước đó đề cập về hình dáng các lục địa đối diện nhau hai phía Đại Tây Dương (nổi bật nhất là châu Phi và Nam Mỹ) thì thấy chúng khớp nhau.[5] W. J. Kious miêu tả suy nghĩ của Ortelius theo hướng này:[6]

Abraham Ortelius trong tác phẩm Thesaurus Geographicus... cho rằng châu Mỹ từng "bị xé ra khỏi châu Âu và châu Phi bởi các trận động đất và lũ lụt" và tiếp tục nhận xét rằng: "Những dấu tích về các đường đứt khúc đã bộc lộ điều đó, nếu một ai đó mang bản đồ ra và xem xét cẩn thận các bờ biển của ba lục địa này."

Năm 1912, Alfred Wegener đã nhận thấy rằng hình dáng của các lục địa ở hai bên bờ của Đại Tây Dương có thể được xếp khít vào nhau (ví dụ Châu PhiNam Mỹ). Sau đó, Benjamin Franklin cũng có nhận xét tương tự. Sự tương đồng giữa các cấu trúc địa lý và hóa thạch ở các lục địa làm cho các nhà địa chất, vào năm 1900, cho rằng các lục địa đã từng xuất phát từ một "siêu lục địa" với cái tên là Pangaea. Ban đầu, giả thuyết đó không được chấp nhận rộng rãi vì người ta không hiểu tại sao các lục địa lại có thể trôi dạt ra xa nhau. Cho đến tận thập niên 1950 nó mới được chấp nhận ở Châu Âu và phải đến thập niên 1960 nó mới được chấp nhận ở Bắc Mỹ. Giả thuyết trôi dạt lục địa trở thành một bộ phận của một lý thuyết lớn hơn là lý thuyết kiến tạo mảng.